Ý kiến thăm dò

Truy cập

Hôm nay:
1
Hôm qua:
0
Tuần này:
1
Tháng này:
0
Tất cả:
388209

Lịch sử làng Báo Văn, xã Nga Phượng, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa

Ngày 15/01/2022 08:29:53

Lịch sử làng Báo Văn, xã Nga Phượng, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa

BCĐ “TDĐKXDĐSVH” CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
XÃ NGA LĨNH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
LÀNG BÁO VĂN
Báo Văn, ngày 10 tháng 12 năm 2002

LỊCH SỬ
LÀNG BÁO VĂN XÃ NGA LĨNH HUYỆN NGA SƠN

I – PHẦN MỞ ĐẦU

Làng Báo Văn là một làng có diện tích nhỏ và dân số trung bình trong xã. Giữa làng có đưởng Tỉnh lộ 13 chạy qua. Có cầu nối liền hai huyện Hà Trung và Nga Sơn ; có 750m đê sông Hoạt chạy từ giáp ranh làng Hội Kê ra Trạm bơm Văn Thắng II. Phía Bắc giáp ranh làng Thượng xã Nga Thắng, phía Nam giáp ranh làng Hội Kê, phía Đông giáp ranh làng Tam Linh xã Nga Thắng, phía Tây là sông Hoạt ranh giới giữa huyện Nga Sơn và Hà Trung. Làng có hai quả : núi Rậm có 12 đỉnh tượng trưng cho 12 đầu rồng vang nên còn có tên là núi Vàng ; núi Thông hình tượng như một con Hổ vàng quay đầu về hướng Đông ôm lấy ngôi chùa cổ. Trong chùa có ba chữ Thung Sơn Tự nghĩa là chùa trong núi. .
Diện tích của làng khoảng 0,85km2, trong đó 85 mẫu đất trồng trọt. Làng có 251 hộ phân bổ theo hai cụm đan cư nhỏ, Từ xa xưa đã có tên là xóm Đại Đồng và xóm Đại Lợi đến thời điểm này có 937 người.
Làng Báo Văn có lịch sử khá lâu đời, từ đời nhà Trần 1278, làng đã có tên trong lịch sử chống quân ngoại xâm của dân tộc. Với cái tên làng Báo Văn trong sách Đại Việt sử ký toàn thư đã viết và lịch sử văn hóa đã ghi. Tính đến nay làng Báo Văn có trên 700 năm.
Từ xa xưa các cụ tiên sinh đã từng khai sinh đầu tiên trên dải đất đồng chiêm trũng này. Qáu trình sinh sống, làm ăn thêm con Hồng, cháu Lạc vè sau được chia thành 5 dòng họ đó là : họ Nguyễn, Lê, Mai, họ Yên, họ Lường. Đến nay trong làng Báo Văn có 16 dòng họ. Đó là 4 họ Nguyễn : Nguyễn Văn, Nguyễn Ngọc, Nguyễn Duy, Nguyễn Như. Họ Mai, họ Lê, họ Yên, họ Lương, họ Phạm, họ Trần, họ Đỗ và họ Đào. Trong đó họ Nguyễn chiếm 3/4 dân số trong làng. Làng Báo Văn có 16 dòng họ khác nhau nhưng đều là dòng dõi dân tộc Việt Nam, làng luôn đoàn kết, gắn bó, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau trong lao động sản xuất và sinh hoạt đã viết nên trang sử truyền thống văn hóa của làng.
Với nếp sống giản dị, vẻ đẹp về thuần phong mỹ tục của làng là một trong những nét đẹp mạng bản sắc của cả dân tộc Việt Nam.
Làng Báo Văn là một địa danh quan trọng trong xã, nằm trên dải đất cửa ngõ của huyện Nga Sơn từ tỉnh về. Nhân dân Báo Văn từ lâu đời nay có lòng yêu nước nồng nàn, không chịu để mất nước, không chịu làm nô lệ, bền gan sát cánh với đồng bào cả nước trong suốt quá trình lịch sử chống giặc ngoại xâm, dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam được thể hiện ở các giai đoạn sau :
II. GIAI ĐOẠN THỨ NHẤT : TRƯỚC NĂM 1945.
Dưới sụ lãnh đạo của Đảng nhân dân cả nước dấy lên phong trào yêu nước đấu tranh chống áp bức, bóc lột của bọn thực dân phong kiến, các phong trào đấu tranh đoiù giảm tô, giảm thuế, tăng lương, giảm giờ làm. Phong trào các mạng đã hình thành các tổ chức như : Mặt trận Việt Minh, Hội Thanh niên cứu quốc vv …
Đế quốc Nhật nhảy vào Việt Nam, với ý đồ hất cẳng Pháp nhằm đô hộ nước ta nhằm biến Việt Nam thành thuộc địa của chúng. Nhân dân cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiếp tục đấu tranh chống cả Pháp lẫn Nhật trong đó nhân dân làng Báo Văntrong đó nhân dân Báo Văn cũng tham gia tích cực, trong làng đã có đội du kích, bằng vũ khí thô sơ như gậy gộc, giáo mác, mã tấu tham gia đánh Nhật và Pháp trên dòng sông Hoạt. Ngày 16 tháng 7 năm 1945 có tin báo 2 thuyền Nhật chở vũ khí từ Chính Đại về Lèn. Nhân dân trong làng tham gia chặt cây để cản cầu. Vào khoảng 10 giờ đêm hôm đó thuyền Nhật tới. Dân quân du kích trong làng kết hợp với dân quân du kích xã Nga Lĩnh nổ súng chặn đánh. Tiêu biểu như : ông Sửu, ông Khoán… Ngày 26 tháng 7 năm 1945 được lệnh đi đón Phái bộ Đồng Minh tại Đền Sòng Bỉm Sơn có ông Thắng, ông Điểm, ông Chen, ông Lắm, ông Cự, ông Khoán, ông Lạn là những người hăng hái tham gia.
Giai đoạn này các ông Lý – Hương có chức sắc trong làng có xu hướng ủng hộ cách mạng như : ông cụ Nghạnh là Lý trưởng, Hương bạ như : cụ Vũ, Hương bản như : cụ Lệnh, Hương mục như : cụ Ngô …
Tình hình cả nước rất khó khăn về kinh tế nhiều người phải tha phương cầu thực, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nạn đói năm 1945 trong làng đã có 32 người chết, các tổ chức của Đảng vận động nhân dân trong làng đoàn kết, đùm bọc, giúp đỡ nhau, chia ngọt sẻ bùi vượt qua khó khăn hoạn nạn, một lòng theo Đảng, theo Cách mạng, khát khao để có độc lập, tự do cùng với đồng bào cả nước làm nên cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công.
II. GIAI ĐOẠN THỨ HAI TỪ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1954.
Năm 1949 thực dân Pháp đổ bộ xuống Phát Diệm vào Nga Sơn lập các đồn, bốt tại Điền Hộ, Ba Hàng, Hồ Vương, Hói Đào. Lúc này bộ đội chủ lực về đóng tại làng Báo Văn để sẵn sàng chiến đấu với giặc Pháp. Nhân dân Báo Văn đã quyên góp tiền, gạo và quần áo để giúp đỡ bộ đội. Tiêu biểu là các bà như : bà Dinh, bà Khuây, bà Huề, bà Trước vv… ĐÃ nhận đỡ đầu, nhận làm con nuôi để động viên bộ đội đánh Pháp. Cùng với nhân dân trong huyện Bộ đội 73, đội du kích làng Báo Văn cũng tham gia chống càn tại Hói Đào, Nga Thành. Tiêu biểu như : ông Thắng, ông Điển, ông Hân, ông Hội, ông Tráng, ông Hanh, ông Chen, ông Khoát, ông Giáp, ông Khải, ông Thủ vv…
Khi Cách mạng tháng Tám thành công tham gia làm cán bộ xã Sơn Đầu, xã Phượng Mã có các ông : ông Phó Hy, ông Nhiệm, ông Nghạch, ông Cẩn, ông Lân, ông Thước, ông Điểm tham gia trong Ban lãnh đạo thôn có các ông như : ông Nhữ, ông Cự, ông Tổng. Trong làng lúc này có khoảng 100 hộ dân, trên dưới 500 người.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Bác Hồ toàn quốc kháng chiến. Phong trào tham gia bộ đội, thanh niên xung phong, dân công phục vụ kháng chiến trong làng có rất nhiều thanh niên tham gia. Đi bộ đội có các ông : ông tổng, ông Lắm, ông Thìn, ông Ảo, ông Tùng, ông Gạo, ông Khải, ông Khoán, ông : ông Lai ông Giăng, ông Lạn. Trong đó có 4 ông hy sinh trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nay được suy tôn là Liệt sỹ chống Pháp như : ông Tổng, ông Lai, ông Thìn, ông Ảo. Thanh niên xung phong thời chống Pháp có ông Tùy, ông Hiệu, ông Chỉ.
Tham gia đan công tiếp lương tải đạn phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ có khoảng 20 người. Kết thúc 9 năm kháng chiến chống Pháp làng Báo Văn có 9 người tham gia bộ đội, 20 người tham gia du kích, 3 thanh niên xung phong, 4 bà mẹ đỡ đầu Bộ đội, hơn 20 người là đan công tiếp vận, 17 người là đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam, 17 gia đình có công với nước, nhiều người được Đảng và Nhà nước, quân đội tặng thưởng Huân chương kháng chiến, Huy hiệu Chiến sỹ Điện Biên và Bằng khen, giấy khen.
III. GIAI ĐOẠN THỨ BA TỪ 1955 ĐẾN NĂM 1975.
Thời kỳ này đất nước bị tạm thời chia cắt thành hai miền, để tiến tới tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Nhưng đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm cố tình phá hoại Hiệp định Giơ ne vơ. Dưới sự lãnh đọa của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, Miền Bắc tiếp tục xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng làm hậu phương vững chắc cho Miền Nam đấu tranh giải phóng khỏi ách xâm lược của đế quốc Mỹ. Phong trào người cày có ruộng được nhân dân hưởng ứng nhiệt tình, cùng đứng lên đánh đổ địa chủ chia ruộng ruộng đất cho dân nghèo. Phong trào bình dân học vụ xóa nạn mù chữ cho nhân dân được nhân dân trong làng hưởng ứng nhiệt tình. Tiêu biểu cho các pohong trào này là các ông : ông giáo Nghị, ông Trực, ông Huệ, ông Toản, ông Dung vv… Đan có ruộng biết chữ, cuộc sống được nâng lên. Năm 1958 phong trào HTX Nông nghiệp được hình thành nhiều gia đình đã tự nguyện nhập trâu bò, đất đai, công cụ sản xuất cho HTX.
Đến năm 1960 cả làng đều tham gia HTX Nông nghiệp. Lúc này làng Báo Văn có 2 HTX do ông Giăng và ông Thủ làm chủ nhiệm, tham gia Ban quản trị HTX có nhiều ông bà như : bà Bào, bà Tỵ, ông Yến, ông Nhữ, ông Nhang vv… Phong trào Thanh niên rất hăng hái trong sản xuất nhưu : làm phân xanh, nuôi bèo hoa dâu, từng bước đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Ngày 5 tháng Tám năm 1964 giặc Mỹ đem bom bắn phá Miền Bắc. Quê hương Báo Văn là trọng điểm đánh phá của giặc Mỹvì cầu Báo VĂn bắc qua sông Hoạt là mạch máu giao thông, có kho lương thực lớn của tỉnh để dữ trữ cho đất nước, có dòng sông Hoạt là mạch máu giao thông nối liền sông Mã ra sông Đáy là nơi phương tiện vân chuyển đường thủy. Vì vậy mỗi khi Không quân của giặc Mỹ đánh phá Hàm Rồng, Đò Lèn là đánh phá cầu và kho lương thực ở Báo Văn. Giai đoạn này nhân dân Báo Văn phải hứng chịu 3 – 4 chục lần giặc Mỹ đem bom bắn phá. Quyết không chịu khuất phục, không chịu để ruộng hoang, không để ách tắc mạch máu giao thông, nhân dân Báo Văn vừa sản, vừa chiến đấu. Trong làng có Trung đội dân quân ngày đêm trực chiến bắn trả máy bay địch, cùng với lực lượng trực chiến xã. Các anh chị đã chiến đấu bắn trả máy bay địch trên 4 chục trận. Tiêu biểu cho lực lượng dân quân lúc bấy giờ như câc anh, các chị : anh Trang, chị Bào, ông Lập, ông Ký, ông Nhang, ông Khoa, ông Thỉnh, ông Cờ và 50 chiến sỹ ở 3 cụm trực chiến. Thực hiện phương châm : Địch đến ta chiến đấu, địch đi ta sản xuất ; làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm. Công việc đồng ruộng chủ yếu làm đêm do các mẹ, các chị đảm nhiệm. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, nhân dân Báo Văn đã đoàn kết giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn cùng nhau xây dựng lại nhà bị bom Mỹ phá hoại, san lấp hố bom để tăng gia sản xuất. Đào 2 – 3 km hầm hào quanh làng để các cụ già và trẻ em trú ẩn. Nhân dân Báo Văn cùng với lực lượng của xã đã lặn xuống sông vớt gạo, vớt đạn do máy bay Mỹ bắn chìm, bảo quản chu đáo rồi lại chuyển ra chiến trường, ngày đêm cùng với Bọ đội Phòng không đào công sự, kéo pháo vào trận địa ở Bãi Liếp để các anh nhả đạn bắn quân thù. Sau mỗi trận chiến đáu Thanh niên làng lại mang nước, hoa quả động viên Đại đội pháo cao xạ 37 ly. Các mẹ, các chị giúp nuôi quân nấu cơm, nấu nước phục vụ kịp thời.
Năm 1972 kho lương thực có lệnh sơ tán lương thực, nhân dân và lực lượng dân quân trong làng đã vận chuyển hàng trăm tấn lương thực vào ban đêm đảm bảo an toàn tuyệt đối cho người và tài sản của Nhà nước. Trong đội quân lúc này có đội đào bom nổ chậm, tiêu biểu như : anh Nguyễn Văn Cờ, anh Nguyễn Văn Dùng, chị Lê Thị Hòa. Thực hiện khẩu hiệu : “Tất cả vì Miền Nam ruột thịt”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Tất cả cho tiền tuyến đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Dân làng đã động viên con em lên đường nhập ngũ, cầm súng bảo vệ Tổ quốc. Trong có 62 người là Bộ đội, 15 người là Thanh niên xung phong, 6 người là Dân công hỏa tuyến, có 45 người là đảng viên, 17 liệt sỹ, 10 anh chị là thương binh, 5 bệnh binh có những gia đình có 2 con là Liệt sỹ như gia đình bà Vườn, gia đình ông Khải, 17 Liệt sỹ ra đi không bao giờ trở lại, đau thương này thật là vô hạn, nhân dân Báo Văn không bao giờ quên công ơn các anh.
Tóm lại : Từ năm 1955 đến năm 1975 đất nước hoàn toàn giải phóng, tổ quốc thống nhất trong hòa bình, tự do và độc lập. Nhân dân Báo Văn đã làm tròn nhiệm vụ vừa sản xuất, vừa chiến đấu đồng thời làm tròn trách nhiệm với đất nước giữ hậu phương vài chiến đấu, đồng thời làm tròn trách nhiệm với đất nước, giữ hậu phương vài cải thiện và ngày càng phát triển.
Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm của dân tộc ( từ năm 1945 – 1975) làng Báo Văn đã đóng góp cho đất nước những thành tựu đáng tự hào : 64 bộ đội, 7 công an, 18 TNXP, 10 thương binh, 5 bệnh binh, trên 30 dân quân du kích, 5 thầy cô giáo, hơn 50 đảng viên và 84 người có có công được Đảng và Nhà tặng thưởng Huân Huy chương các loại, trận trọng nhất có 21 người là Liệt sỹ.
IV. GIAI ĐOẠN THỨ TƯ TỪ NĂM 1975 ĐẾN 2002 :
Sau chiến dịch đại thắng Mùa Xuân năm 1975, đồng bào cả nước đang tập trung hàn gắn các vết thương chiến tranh và đi lên XHCN. Nhân dân làng Báo Văn với truyền thống cần cù, chịu thương, chịu khó hăn hái lao động sản xuất. Hưởng ứng mạnh mẽ chủ trương, chính sách của Đảng, thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, hoàn thành tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước và tập thể. Đời sống nhân dân ngày càng phát triển. Từ chỗ còn nhiều nhà tranh vách đất hàng năm kinh tế thiếu ăn do quá khứ chiến tranh để lại. Đến any làng không còn hộ đói, hộ nghèo đang được giảm dần. Cô sở vật chất đang được cải thiện. 100% gia đình là nhà ngói, trong làng có 32 nhà bằng và cao tầng. 80% gia đình có Tivi và phương tiện nghe nhìn. Bằng sức mạnh tổng hợp của nhân dân có sự lãnh đạo của Chi bộ, làng đã xây dựng được 2 phòng học Mầm non, 1 Hội trường là Nhà văn hóa kiên cố trị giá 56 triệu đồng. Trong làng có 4 máy sản xuất gạch, 4 máy vò lúa, 5 máy xát gạo, 4 máy nghiền chế biến thức ăn, 4 xe công nông, 40 xe máy. Nhiều người sản xuất kinh doanh giỏi như : gia đình ông Hoàn, anh Viên, anh Đoàn, anh Díu, bà Thắng, anh Tú vv…
Đặc biệt một thương binh nặng vượt khó khăn vươn lên bằng nghề TTCN như anh Loan đã tạo công ăn việc làm cho hơn chục lao động.
Trong lĩnh vực văn hóa giáo dục không ngừng được củng cố và phát triển. Truyền thống hiếu học ngày càng được phát huy. Thuần phong mỹ tục, tình làng nghĩa xóm quan hệ anh em, dòng họ ngày càng được coi trọng và phát triển. Đến nay có hàng chục thầy cô giáo, hàng chục em đậu vào Đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp. Nhiều gia đình có con em đỗ đạt như : gia đình ông Thước, ông Tùng, ông Thanh.
Nối tiếp truyền thống cha anh trước đây từ năm 1975 đến nay ( 2002) Báo Văn đã có 112 thanh niên hăng hái lên đướng nhập ngũ bảo vệ Tổ quốc. Hàng chục thanh niên vào đại học, công nhân và các ngành nghề khác. Có hơn 50 người đã hoàn thành nhiệm vụ được nhà nước cho nghỉ hưu và mất sức. Trong làng có các tổ chức quần như : Hội CCB, Hội Phụ nữ, Hội Người Cao Tuổi, Hội Nông dân, Đoàn thanh niên là thành viên của Ban công tác Mặt trận là tổ chức do Đảng sáng lập luôn luôn là lực lượng mạnh để xây dụng quê hương làng xóm.
V. TÓM LẠI :
Trong lịch sử khá lâu dài của làng Báo Văn mà nổi lên là từ Cách mạng tháng 8 – 1945 đến nay, nhân dân làng Báo Văn có quyền tự hào về truyền thống và bề dày lịch sử của làng. Đó là truyền thống yêu nước, tinh thần bất khuất kiên cường, chịu khó khăn gian khổ, truyền thống đoàn kết tương thân, tương ái, cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, không ngừng vươn lên tới cuộc sống ấm no hạn phúc.
Với truyền thống ngàn năm văn hiến của dân tộc Việt Nam, nhân dân làng Báo Văn cũng mang trong mình dòng máu Việt Nam, coi trọng nghĩa tình, tự hào về lịch sử, quyết tâm xây dựng làng Báo Văn thành một làng văn hóa kiểu mẫu, nhân dân có cuộc sống ấm no - hạnh phúc, luôn có nếp sống văn hóa lành mạnh .
Báo văn, ngày 10 tháng 12 năm 2002
BAN DỰ THẢO LỊCH SỬ LANG
Đánh máy lại ngày 02 tháng 10 năm 2015
Người đánh máy Trịnh Văn Hán

Lịch sử làng Báo Văn, xã Nga Phượng, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa

Đăng lúc: 15/01/2022 08:29:53 (GMT+7)

Lịch sử làng Báo Văn, xã Nga Phượng, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa

BCĐ “TDĐKXDĐSVH” CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
XÃ NGA LĨNH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
LÀNG BÁO VĂN
Báo Văn, ngày 10 tháng 12 năm 2002

LỊCH SỬ
LÀNG BÁO VĂN XÃ NGA LĨNH HUYỆN NGA SƠN

I – PHẦN MỞ ĐẦU

Làng Báo Văn là một làng có diện tích nhỏ và dân số trung bình trong xã. Giữa làng có đưởng Tỉnh lộ 13 chạy qua. Có cầu nối liền hai huyện Hà Trung và Nga Sơn ; có 750m đê sông Hoạt chạy từ giáp ranh làng Hội Kê ra Trạm bơm Văn Thắng II. Phía Bắc giáp ranh làng Thượng xã Nga Thắng, phía Nam giáp ranh làng Hội Kê, phía Đông giáp ranh làng Tam Linh xã Nga Thắng, phía Tây là sông Hoạt ranh giới giữa huyện Nga Sơn và Hà Trung. Làng có hai quả : núi Rậm có 12 đỉnh tượng trưng cho 12 đầu rồng vang nên còn có tên là núi Vàng ; núi Thông hình tượng như một con Hổ vàng quay đầu về hướng Đông ôm lấy ngôi chùa cổ. Trong chùa có ba chữ Thung Sơn Tự nghĩa là chùa trong núi. .
Diện tích của làng khoảng 0,85km2, trong đó 85 mẫu đất trồng trọt. Làng có 251 hộ phân bổ theo hai cụm đan cư nhỏ, Từ xa xưa đã có tên là xóm Đại Đồng và xóm Đại Lợi đến thời điểm này có 937 người.
Làng Báo Văn có lịch sử khá lâu đời, từ đời nhà Trần 1278, làng đã có tên trong lịch sử chống quân ngoại xâm của dân tộc. Với cái tên làng Báo Văn trong sách Đại Việt sử ký toàn thư đã viết và lịch sử văn hóa đã ghi. Tính đến nay làng Báo Văn có trên 700 năm.
Từ xa xưa các cụ tiên sinh đã từng khai sinh đầu tiên trên dải đất đồng chiêm trũng này. Qáu trình sinh sống, làm ăn thêm con Hồng, cháu Lạc vè sau được chia thành 5 dòng họ đó là : họ Nguyễn, Lê, Mai, họ Yên, họ Lường. Đến nay trong làng Báo Văn có 16 dòng họ. Đó là 4 họ Nguyễn : Nguyễn Văn, Nguyễn Ngọc, Nguyễn Duy, Nguyễn Như. Họ Mai, họ Lê, họ Yên, họ Lương, họ Phạm, họ Trần, họ Đỗ và họ Đào. Trong đó họ Nguyễn chiếm 3/4 dân số trong làng. Làng Báo Văn có 16 dòng họ khác nhau nhưng đều là dòng dõi dân tộc Việt Nam, làng luôn đoàn kết, gắn bó, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau trong lao động sản xuất và sinh hoạt đã viết nên trang sử truyền thống văn hóa của làng.
Với nếp sống giản dị, vẻ đẹp về thuần phong mỹ tục của làng là một trong những nét đẹp mạng bản sắc của cả dân tộc Việt Nam.
Làng Báo Văn là một địa danh quan trọng trong xã, nằm trên dải đất cửa ngõ của huyện Nga Sơn từ tỉnh về. Nhân dân Báo Văn từ lâu đời nay có lòng yêu nước nồng nàn, không chịu để mất nước, không chịu làm nô lệ, bền gan sát cánh với đồng bào cả nước trong suốt quá trình lịch sử chống giặc ngoại xâm, dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam được thể hiện ở các giai đoạn sau :
II. GIAI ĐOẠN THỨ NHẤT : TRƯỚC NĂM 1945.
Dưới sụ lãnh đạo của Đảng nhân dân cả nước dấy lên phong trào yêu nước đấu tranh chống áp bức, bóc lột của bọn thực dân phong kiến, các phong trào đấu tranh đoiù giảm tô, giảm thuế, tăng lương, giảm giờ làm. Phong trào các mạng đã hình thành các tổ chức như : Mặt trận Việt Minh, Hội Thanh niên cứu quốc vv …
Đế quốc Nhật nhảy vào Việt Nam, với ý đồ hất cẳng Pháp nhằm đô hộ nước ta nhằm biến Việt Nam thành thuộc địa của chúng. Nhân dân cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiếp tục đấu tranh chống cả Pháp lẫn Nhật trong đó nhân dân làng Báo Văntrong đó nhân dân Báo Văn cũng tham gia tích cực, trong làng đã có đội du kích, bằng vũ khí thô sơ như gậy gộc, giáo mác, mã tấu tham gia đánh Nhật và Pháp trên dòng sông Hoạt. Ngày 16 tháng 7 năm 1945 có tin báo 2 thuyền Nhật chở vũ khí từ Chính Đại về Lèn. Nhân dân trong làng tham gia chặt cây để cản cầu. Vào khoảng 10 giờ đêm hôm đó thuyền Nhật tới. Dân quân du kích trong làng kết hợp với dân quân du kích xã Nga Lĩnh nổ súng chặn đánh. Tiêu biểu như : ông Sửu, ông Khoán… Ngày 26 tháng 7 năm 1945 được lệnh đi đón Phái bộ Đồng Minh tại Đền Sòng Bỉm Sơn có ông Thắng, ông Điểm, ông Chen, ông Lắm, ông Cự, ông Khoán, ông Lạn là những người hăng hái tham gia.
Giai đoạn này các ông Lý – Hương có chức sắc trong làng có xu hướng ủng hộ cách mạng như : ông cụ Nghạnh là Lý trưởng, Hương bạ như : cụ Vũ, Hương bản như : cụ Lệnh, Hương mục như : cụ Ngô …
Tình hình cả nước rất khó khăn về kinh tế nhiều người phải tha phương cầu thực, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nạn đói năm 1945 trong làng đã có 32 người chết, các tổ chức của Đảng vận động nhân dân trong làng đoàn kết, đùm bọc, giúp đỡ nhau, chia ngọt sẻ bùi vượt qua khó khăn hoạn nạn, một lòng theo Đảng, theo Cách mạng, khát khao để có độc lập, tự do cùng với đồng bào cả nước làm nên cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công.
II. GIAI ĐOẠN THỨ HAI TỪ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1954.
Năm 1949 thực dân Pháp đổ bộ xuống Phát Diệm vào Nga Sơn lập các đồn, bốt tại Điền Hộ, Ba Hàng, Hồ Vương, Hói Đào. Lúc này bộ đội chủ lực về đóng tại làng Báo Văn để sẵn sàng chiến đấu với giặc Pháp. Nhân dân Báo Văn đã quyên góp tiền, gạo và quần áo để giúp đỡ bộ đội. Tiêu biểu là các bà như : bà Dinh, bà Khuây, bà Huề, bà Trước vv… ĐÃ nhận đỡ đầu, nhận làm con nuôi để động viên bộ đội đánh Pháp. Cùng với nhân dân trong huyện Bộ đội 73, đội du kích làng Báo Văn cũng tham gia chống càn tại Hói Đào, Nga Thành. Tiêu biểu như : ông Thắng, ông Điển, ông Hân, ông Hội, ông Tráng, ông Hanh, ông Chen, ông Khoát, ông Giáp, ông Khải, ông Thủ vv…
Khi Cách mạng tháng Tám thành công tham gia làm cán bộ xã Sơn Đầu, xã Phượng Mã có các ông : ông Phó Hy, ông Nhiệm, ông Nghạch, ông Cẩn, ông Lân, ông Thước, ông Điểm tham gia trong Ban lãnh đạo thôn có các ông như : ông Nhữ, ông Cự, ông Tổng. Trong làng lúc này có khoảng 100 hộ dân, trên dưới 500 người.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Bác Hồ toàn quốc kháng chiến. Phong trào tham gia bộ đội, thanh niên xung phong, dân công phục vụ kháng chiến trong làng có rất nhiều thanh niên tham gia. Đi bộ đội có các ông : ông tổng, ông Lắm, ông Thìn, ông Ảo, ông Tùng, ông Gạo, ông Khải, ông Khoán, ông : ông Lai ông Giăng, ông Lạn. Trong đó có 4 ông hy sinh trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nay được suy tôn là Liệt sỹ chống Pháp như : ông Tổng, ông Lai, ông Thìn, ông Ảo. Thanh niên xung phong thời chống Pháp có ông Tùy, ông Hiệu, ông Chỉ.
Tham gia đan công tiếp lương tải đạn phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ có khoảng 20 người. Kết thúc 9 năm kháng chiến chống Pháp làng Báo Văn có 9 người tham gia bộ đội, 20 người tham gia du kích, 3 thanh niên xung phong, 4 bà mẹ đỡ đầu Bộ đội, hơn 20 người là đan công tiếp vận, 17 người là đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam, 17 gia đình có công với nước, nhiều người được Đảng và Nhà nước, quân đội tặng thưởng Huân chương kháng chiến, Huy hiệu Chiến sỹ Điện Biên và Bằng khen, giấy khen.
III. GIAI ĐOẠN THỨ BA TỪ 1955 ĐẾN NĂM 1975.
Thời kỳ này đất nước bị tạm thời chia cắt thành hai miền, để tiến tới tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Nhưng đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm cố tình phá hoại Hiệp định Giơ ne vơ. Dưới sự lãnh đọa của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, Miền Bắc tiếp tục xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng làm hậu phương vững chắc cho Miền Nam đấu tranh giải phóng khỏi ách xâm lược của đế quốc Mỹ. Phong trào người cày có ruộng được nhân dân hưởng ứng nhiệt tình, cùng đứng lên đánh đổ địa chủ chia ruộng ruộng đất cho dân nghèo. Phong trào bình dân học vụ xóa nạn mù chữ cho nhân dân được nhân dân trong làng hưởng ứng nhiệt tình. Tiêu biểu cho các pohong trào này là các ông : ông giáo Nghị, ông Trực, ông Huệ, ông Toản, ông Dung vv… Đan có ruộng biết chữ, cuộc sống được nâng lên. Năm 1958 phong trào HTX Nông nghiệp được hình thành nhiều gia đình đã tự nguyện nhập trâu bò, đất đai, công cụ sản xuất cho HTX.
Đến năm 1960 cả làng đều tham gia HTX Nông nghiệp. Lúc này làng Báo Văn có 2 HTX do ông Giăng và ông Thủ làm chủ nhiệm, tham gia Ban quản trị HTX có nhiều ông bà như : bà Bào, bà Tỵ, ông Yến, ông Nhữ, ông Nhang vv… Phong trào Thanh niên rất hăng hái trong sản xuất nhưu : làm phân xanh, nuôi bèo hoa dâu, từng bước đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Ngày 5 tháng Tám năm 1964 giặc Mỹ đem bom bắn phá Miền Bắc. Quê hương Báo Văn là trọng điểm đánh phá của giặc Mỹvì cầu Báo VĂn bắc qua sông Hoạt là mạch máu giao thông, có kho lương thực lớn của tỉnh để dữ trữ cho đất nước, có dòng sông Hoạt là mạch máu giao thông nối liền sông Mã ra sông Đáy là nơi phương tiện vân chuyển đường thủy. Vì vậy mỗi khi Không quân của giặc Mỹ đánh phá Hàm Rồng, Đò Lèn là đánh phá cầu và kho lương thực ở Báo Văn. Giai đoạn này nhân dân Báo Văn phải hứng chịu 3 – 4 chục lần giặc Mỹ đem bom bắn phá. Quyết không chịu khuất phục, không chịu để ruộng hoang, không để ách tắc mạch máu giao thông, nhân dân Báo Văn vừa sản, vừa chiến đấu. Trong làng có Trung đội dân quân ngày đêm trực chiến bắn trả máy bay địch, cùng với lực lượng trực chiến xã. Các anh chị đã chiến đấu bắn trả máy bay địch trên 4 chục trận. Tiêu biểu cho lực lượng dân quân lúc bấy giờ như câc anh, các chị : anh Trang, chị Bào, ông Lập, ông Ký, ông Nhang, ông Khoa, ông Thỉnh, ông Cờ và 50 chiến sỹ ở 3 cụm trực chiến. Thực hiện phương châm : Địch đến ta chiến đấu, địch đi ta sản xuất ; làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm. Công việc đồng ruộng chủ yếu làm đêm do các mẹ, các chị đảm nhiệm. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, nhân dân Báo Văn đã đoàn kết giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn cùng nhau xây dựng lại nhà bị bom Mỹ phá hoại, san lấp hố bom để tăng gia sản xuất. Đào 2 – 3 km hầm hào quanh làng để các cụ già và trẻ em trú ẩn. Nhân dân Báo Văn cùng với lực lượng của xã đã lặn xuống sông vớt gạo, vớt đạn do máy bay Mỹ bắn chìm, bảo quản chu đáo rồi lại chuyển ra chiến trường, ngày đêm cùng với Bọ đội Phòng không đào công sự, kéo pháo vào trận địa ở Bãi Liếp để các anh nhả đạn bắn quân thù. Sau mỗi trận chiến đáu Thanh niên làng lại mang nước, hoa quả động viên Đại đội pháo cao xạ 37 ly. Các mẹ, các chị giúp nuôi quân nấu cơm, nấu nước phục vụ kịp thời.
Năm 1972 kho lương thực có lệnh sơ tán lương thực, nhân dân và lực lượng dân quân trong làng đã vận chuyển hàng trăm tấn lương thực vào ban đêm đảm bảo an toàn tuyệt đối cho người và tài sản của Nhà nước. Trong đội quân lúc này có đội đào bom nổ chậm, tiêu biểu như : anh Nguyễn Văn Cờ, anh Nguyễn Văn Dùng, chị Lê Thị Hòa. Thực hiện khẩu hiệu : “Tất cả vì Miền Nam ruột thịt”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Tất cả cho tiền tuyến đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Dân làng đã động viên con em lên đường nhập ngũ, cầm súng bảo vệ Tổ quốc. Trong có 62 người là Bộ đội, 15 người là Thanh niên xung phong, 6 người là Dân công hỏa tuyến, có 45 người là đảng viên, 17 liệt sỹ, 10 anh chị là thương binh, 5 bệnh binh có những gia đình có 2 con là Liệt sỹ như gia đình bà Vườn, gia đình ông Khải, 17 Liệt sỹ ra đi không bao giờ trở lại, đau thương này thật là vô hạn, nhân dân Báo Văn không bao giờ quên công ơn các anh.
Tóm lại : Từ năm 1955 đến năm 1975 đất nước hoàn toàn giải phóng, tổ quốc thống nhất trong hòa bình, tự do và độc lập. Nhân dân Báo Văn đã làm tròn nhiệm vụ vừa sản xuất, vừa chiến đấu đồng thời làm tròn trách nhiệm với đất nước giữ hậu phương vài chiến đấu, đồng thời làm tròn trách nhiệm với đất nước, giữ hậu phương vài cải thiện và ngày càng phát triển.
Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm của dân tộc ( từ năm 1945 – 1975) làng Báo Văn đã đóng góp cho đất nước những thành tựu đáng tự hào : 64 bộ đội, 7 công an, 18 TNXP, 10 thương binh, 5 bệnh binh, trên 30 dân quân du kích, 5 thầy cô giáo, hơn 50 đảng viên và 84 người có có công được Đảng và Nhà tặng thưởng Huân Huy chương các loại, trận trọng nhất có 21 người là Liệt sỹ.
IV. GIAI ĐOẠN THỨ TƯ TỪ NĂM 1975 ĐẾN 2002 :
Sau chiến dịch đại thắng Mùa Xuân năm 1975, đồng bào cả nước đang tập trung hàn gắn các vết thương chiến tranh và đi lên XHCN. Nhân dân làng Báo Văn với truyền thống cần cù, chịu thương, chịu khó hăn hái lao động sản xuất. Hưởng ứng mạnh mẽ chủ trương, chính sách của Đảng, thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, hoàn thành tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước và tập thể. Đời sống nhân dân ngày càng phát triển. Từ chỗ còn nhiều nhà tranh vách đất hàng năm kinh tế thiếu ăn do quá khứ chiến tranh để lại. Đến any làng không còn hộ đói, hộ nghèo đang được giảm dần. Cô sở vật chất đang được cải thiện. 100% gia đình là nhà ngói, trong làng có 32 nhà bằng và cao tầng. 80% gia đình có Tivi và phương tiện nghe nhìn. Bằng sức mạnh tổng hợp của nhân dân có sự lãnh đạo của Chi bộ, làng đã xây dựng được 2 phòng học Mầm non, 1 Hội trường là Nhà văn hóa kiên cố trị giá 56 triệu đồng. Trong làng có 4 máy sản xuất gạch, 4 máy vò lúa, 5 máy xát gạo, 4 máy nghiền chế biến thức ăn, 4 xe công nông, 40 xe máy. Nhiều người sản xuất kinh doanh giỏi như : gia đình ông Hoàn, anh Viên, anh Đoàn, anh Díu, bà Thắng, anh Tú vv…
Đặc biệt một thương binh nặng vượt khó khăn vươn lên bằng nghề TTCN như anh Loan đã tạo công ăn việc làm cho hơn chục lao động.
Trong lĩnh vực văn hóa giáo dục không ngừng được củng cố và phát triển. Truyền thống hiếu học ngày càng được phát huy. Thuần phong mỹ tục, tình làng nghĩa xóm quan hệ anh em, dòng họ ngày càng được coi trọng và phát triển. Đến nay có hàng chục thầy cô giáo, hàng chục em đậu vào Đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp. Nhiều gia đình có con em đỗ đạt như : gia đình ông Thước, ông Tùng, ông Thanh.
Nối tiếp truyền thống cha anh trước đây từ năm 1975 đến nay ( 2002) Báo Văn đã có 112 thanh niên hăng hái lên đướng nhập ngũ bảo vệ Tổ quốc. Hàng chục thanh niên vào đại học, công nhân và các ngành nghề khác. Có hơn 50 người đã hoàn thành nhiệm vụ được nhà nước cho nghỉ hưu và mất sức. Trong làng có các tổ chức quần như : Hội CCB, Hội Phụ nữ, Hội Người Cao Tuổi, Hội Nông dân, Đoàn thanh niên là thành viên của Ban công tác Mặt trận là tổ chức do Đảng sáng lập luôn luôn là lực lượng mạnh để xây dụng quê hương làng xóm.
V. TÓM LẠI :
Trong lịch sử khá lâu dài của làng Báo Văn mà nổi lên là từ Cách mạng tháng 8 – 1945 đến nay, nhân dân làng Báo Văn có quyền tự hào về truyền thống và bề dày lịch sử của làng. Đó là truyền thống yêu nước, tinh thần bất khuất kiên cường, chịu khó khăn gian khổ, truyền thống đoàn kết tương thân, tương ái, cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, không ngừng vươn lên tới cuộc sống ấm no hạn phúc.
Với truyền thống ngàn năm văn hiến của dân tộc Việt Nam, nhân dân làng Báo Văn cũng mang trong mình dòng máu Việt Nam, coi trọng nghĩa tình, tự hào về lịch sử, quyết tâm xây dựng làng Báo Văn thành một làng văn hóa kiểu mẫu, nhân dân có cuộc sống ấm no - hạnh phúc, luôn có nếp sống văn hóa lành mạnh .
Báo văn, ngày 10 tháng 12 năm 2002
BAN DỰ THẢO LỊCH SỬ LANG
Đánh máy lại ngày 02 tháng 10 năm 2015
Người đánh máy Trịnh Văn Hán
0 bình luận
(Bấm vào đây để nhận mã)

Công khai KQ giải quyết TTHC UBND xã